Tiến bộ khoa học giúp cảnh báo trước các hiện tượng khí tượng thủy văn

713

Ngành Khí tượng thủy văn đã tiếp tục duy trì thực hiện các Chiến lược phát triển đến năm 2030; và nâng cao tầm nhìn đến năm 2045 góp phần giúp tăng chất lượng phân tích; dự đoán thời tiết và cảnh báo trước thiên tai đặc biệt là dự báo xa.

Cũng như nhận thức rõ ý nghĩ và vai trò của công tác dự báo; cũng như giúp cảnh báo sớm, giúp con người có thể tránh khỏi các hiện tượng thời tiết cực đoan; giúp làm giảm tác động tiêu cực đối với đời sống của người dân, cũng như về sự phát triển kinh tế – xã hội. Những năm vừa qua, công tác dự đoán, cảnh báo khí tượng thủy văn vẫn luôn là vấn đề được Chính phủ chú trọng.

Trong những năm từ 2015 – 2020, có rất nhiều tiến bộ khoa học, các trang thiết bị công nghệ; đã được phát triển và được ứng dụng một cách hiệu quả vào công việc dự báo, cảnh báo hiện tượng khí tượng thủy văn. Công tác đã và đang từng bước ngày càng được hiện đại hóa và hoàn thiện toàn diện. Hiện đã có nhiều dự án góp phần hiện đại hóa công tác dự đoán đã được triển khai; nhằm tăng cao năng lực, hình thức và nội dung các mọi bản tin dự báo các hiện tượng khí tượng thủy văn.

Bước tiến đáng kể trong dự báo, cảnh báo

Ngành đã thực hiện cảnh báo bão sớm trước 5 ngày, dự báo, cảnh báo áp thấp nhiệt đới trước 3 ngày; dự báo, cảnh báo mưa lớn trước 2 – 3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%; cảnh báo rét đậm, rét hại trước 2 – 3 ngày với độ tin cậy 80 – 90%. Cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1 – 2 ngày, các sông khu vực Bắc Bộ, Nam Bộ trước 3 – 5 ngày thường đạt 70 – 80%. Cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng trước từ 2 – 3 ngày có độ tin cậy 70%.

Đáng chú ý, các bản tin dự báo bão, áp thấp nhiệt đới đã kéo dài thời hạn dự báo đến 3 ngày và cảnh báo đến 5 ngày. Các bản tin dự báo, cảnh báo mưa lớn diện rộng, nắng nóng, không khí lạnh cũng cảnh báo trước từ 2 – 3 ngày và dự báo trước 1 – 2 ngày; nhận định về tình hình hạn hán, xâm nhập mặn sớm và sát với thực tế.

Đặc biệt, trong năm 2019-2020, ngành đã dự báo chính xác các xu thế thời tiết; nhất là tình hình thiếu nước, xâm nhập mặn ở khu vực Trung Bộ và Nam Bộ; qua đó giảm thiệt hại trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ bằng 9,6% so với năm 2016. Ngành đã cảnh báo, dự báo kịp thời, sát diễn biến của 13 cơn bão và một áp thấp nhiệt đới; 21 đợt không khí lạnh; 13 đợt nắng nóng; 18 đợt mưa lớn trên diện rộng; 17 đợt lũ trên phạm vi cả nước.

Hiện đại hóa mạng lưới quan trắc

Mạng lưới quan trắc
Mạng lưới quan trắc

 

Hiện đại hóa mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thủy văn, đến nay, trên cả nước đã có 782 trạm đo mưa độc lập; 284 trạm khí tượng bề mặt (trong đó, có 181 trạm khí tượng thủ công, 103 trạm tự động); 359 trạm thủy văn (trong đó có 234 trạm thủ công, 125 trạm tự động); 27 trạm khí tượng hải văn, 45 trạm khí tượng cao không; thiết lập mạng lưới hàng trăm trạm quan trắc môi trường kết nối trực tuyến với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường.

Ngành KTTV đã ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử; trên các nền tảng số hóa và dữ liệu lớn. 63 trạm định vị vệ tinh (Cors) đã đưa vào sử dụng để cung cấp các dịch vụ định vị chính xác phục vụ các hoạt động kinh tế, xã hội.

Trung tâm Dữ liệu vùng Đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng, cơ sở dữ liệu nền địa lý; bản đồ địa hình quốc gia; cơ sở dữ liệu viễn thám, siêu dữ liệu viễn thám quốc gia; cơ sở dữ liệu quốc gia về quan trắc tài nguyên và môi trường; đưa vào sử dụng cơ sở dữ liệu đất đai ở 192 quận, huyện thị xã.

Trung tâm điều hành thông minh được thiết lập, kết nối, đảm bảo các hoạt động chỉ đạo; điều hành thông suốt trong thời gian giãn cách xã hội do tác động của đại dịch COVID-19; tổ chức các hội nghị, diễn đàn của Liên Hợp Quốc, cuộc họp, đàm phán với đối tác quốc tế theo hình thức trực tuyến.

Đan dày mạng lưới đo mưa tự động

Hệ thống đo mưa tự động
Hệ thống đo mưa tự động

Những năm gần đây, diễn biến khí tượng thủy văn ở nước ta ngày càng phức tạp; bất thường trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Để phục vụ hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai; ngành Khí tượng thủy văn xác định, phải nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai; trọng tâm là việc cảnh báo, dự báo sớm và chi tiết.

Bên cạnh đó, tiếp tục phát triển, đan dày mạng lưới đo mưa tự động; đặc biệt cho vùng núi cao nơi thường xảy ra mưa, lũ, lũ quét, sạt lở đất theo hình thức thuê dịch vụ với số lượng dự kiến khoảng 1.000 điểm đo mưa tự động độc lập. Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn trên toàn quốc cần được quản lý chặt chẽ; chỉ đạo xử lý các vấn đề phát sinh trên mạng lưới khí tượng thủy văn quốc gia.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *